Phật giáo Tây Tạng thờ ai? và những điều kỳ bí bạn nên biết

21/10/2024

Tây Tạng luôn là mảnh đất huyền bí và quyến rũ tất cả du khách bởi nơi đây sở hữu khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và không gian văn hóa- Phật giáo mang đậm màu sắc bản địa. Vậy Phật giáo Tây Tạng thờ ai? Hãy cùng PYS Travel hiểu thêm về Phật giáo Tây Tạng ngay trong bài viết dưới đây!

I. Đôi nét về Phật giáo Tây Tạng 

Phật giáo Tây Tạng có tên tiếng Anh là Tibetan Buddhism hay còn có tên gọi khác là Lạt-ma Giáo, nguồn gốc của tên gọi này xuất phát từ việc Phật giáo Tây Tạng rất tôn sùng Lạt Ma. Phật giáo Tây Tạng là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng. Truyền thống này cũng được tìm thấy ở các vùng xung quanh Himalaya (chẳng hạn như Bhutan, Ladakh, và Sikkim), phần nhiều ở Trung Á, các vùng phía nam Siberia như Tuva, và Mông Cổ.

phật giáo tây tạng

Phật giáo Tây Tạng (Ảnh: Sưu tầm)

II. Phật giáo Tây Tạng thờ ai?

Phật giáo Tây Tạng là hình thức kết hợp của Phật giáo Đại thừa và Kim cương thừa, xuất phát từ các giai đoạn sớm nhất của lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ. Chính vì thế, Lạt - ma Giáo thờ nhiều vị Phật, Bồ tát, các vị Đại thành tựu, các vị thần bản địa Tây Tạng. Phật giáo Tây Tạng thường thờ:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Người Tây Tạng coi Đức Phật chính là nguồn gốc của tất cả các pháp môn, bậc thầy cao nhất của Phật. Ngài là người đã đạt đến giác ngộ, truyền bá đạo Phật cho Phật tử, chúng sinh.

Đức Phật A Di Đà: Là vị Phật của ánh sáng vô lượng, tạo ra thế giới Cực Lạc. Với người Tây Tạng, họ tin rằng khi niệm A Di Đà khi chết sẽ được tái sinh ở Cực Lạc và tiếp tục được tu hành dưới sự dẫn dắt của Ngài.

đức phật a di đà

Đức Phật A Di Đà (Ảnh: Sưu tầm) 

Đức Phật Vairocana: Là vị Phật của trí tuệ tối thượng, vị Phật toàn năng có khả năng giải thoát cho tất cả chúng sinh theo quan điểm của người dân Tây Tạng.

Bồ tát Quán Thế Âm: Là vị Bồ tát của sự từ bi, luôn lắng nghe tiếng khóc của chúng sinh khắp cõi để giải thoát cho họ. Người dân Tây Tạng tin rằng, Dalai Lama là Đức Phật tái sinh của Quán Thế Âm và là người bảo trợ cho dân tộc ở Tây Tạng.

Bồ Tát Samantabhadra: Là vị Bồ tát của hành trì, luôn tuân theo giới luật và thực hiện mọi công đức. Với người dân Tây Tạng, Ngài là biểu tượng của Pháp tính thuần khiết, là bậc thầy của dòng tu.

Dakini: Là vị thần có quyền năng phi thường, hỗ trợ các tu sĩ trong việc tu hành Kim cương thừa.

Yidam: Là những vị thần đại diện cho mọi khía cạnh khác nhau của pháp tính, có hình thức kỳ dị. Họ được coi là người bảo trợ cho các phương pháp tu tập, là người ban phước cho các tu sĩ.

Đại thành tựu: Là người đã đạt đến giác ngộ, thần thông quảng đại, có những kỳ tích phi thường.

III. Nguồn gốc và lịch sử phát triển của Phật giáo Tây Tạng

1. Phật giáo thời tiền truyện

Trước khi Phật giáo du nhập vào Tây Tạng thì Bôn giáo được coi là quốc giáo. Ở khoảng thế kỷ 7, dưới thời vua Tùng Tán Cán Bố (629 - 650) - con trai vua Nam Nhật Tùng Tán, quốc gia Thổ Phồn mới được thống nhất và hùng cường. Vua Tùng Tán Cán Bố đã ban hình Thập Hiền Thiện (10 điều thiện) và Thập lục Yếu (mười sáu yếu luật) và lấy Phật giáo làm kim chỉ nam răn dạy dân chúng. Mặc dù có sự khác nhau về triết lý lẫn hình thái nhưng Phật giáo của Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc không những không bị bài trừ mà cùng nhau dung hòa, bổ sung và làm đậm nét màu sắc cho Phật giáo Tây Tạng.

phật giáo tây tạng

Phật giáo thời tiền truyện (Ảnh: Sưu tầm)

Vậy nên, sau này người ta đã ghi công khai phá Phật giáo cho vua Tùng Tán Cán Bố và cũng không quên hai hoàng hậu của ông. Vua Tùng Tán Cán Bố đã xây dựng cung Bố Đạt La (Potala) để thờ cúng và kính lễ Tam Bảo và cho xây 2 ngôi chùa Đại Chiêu Tự thờ Phật Thích Ca Mâu Ni cho công chúa Văn Thành và Tiểu Chiêu Tự cho công chúa Ba Lợi Khố Cơ thờ đức Đông Phương A Súc Phật (Kim cương Phật).

Tông đầu tiên của Phật giáo Tây Tạng - Ninh Mã được ra đời ở giai đoạn đại sư Liên Hoa Sinh đến truyền đạo. Ninh Mã mang đậm bản sắc cao nguyên với sức phục có mũ đỏ còn có tên gọi khác là Hồng Mạo Giáo. Đại sư Liên Hoa Sinh được coi là sư tổ của tông phái này.

2. Phật giáo Tây Tạng thời hậu truyện

Sau khoảng thời gian dài bị áp bức, đến thế kỷ 11, Phật giáo được phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Lúc bấy giờ, có 2 trường phái là Ca Nhĩ Cư và Tát Ca. Nhiều người dân Tây Tạng đã sang Ấn Độ để mang về nhiều bản dịch kinh điển. Các cao tăng Ấn Độ cũng đến Tây Tạng hoằng pháp nhiều hơn, tiêu biểu như đại sư A Đề Sa đến từ Thiên Trúc. Ấn Độ là nơi có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo Tây Tạng lúc đó.

phật giáo tây tạng

Phật giáo Tây Tạng (Ảnh: Sưu tầm)

Đến thế kỷ 14, phái Cách Lỗ được nhà cải cách Tông Khách Ba sáng lập để nhằm vào thời Vĩnh Lạc Minh Thành Tổ. Cách Lỗ phái được xem là một trong bốn trường phái lớn của Phật giáo Tây Tạng cùng với Ninh Mã, Ca Nhĩ Cư, Tát Ca. Các tông phái và giáo lý đều khác nhau dù có cùng một hệ thống kinh sách mạch lạch nhưng lại không xây dựng tu viện nên bị hòa vào các dòng khác.

Ngày nay, những tu viện nổi tiếng đều thuộc Hoàng Giáo (phái Cách Lỗ) chẳng hạn như viện Cam Đan (Ganden Monastery) ở Lhasa, tu viện Triết Phong (Deprung Monastery) ở Lhasa, tu viện Sắc Nhạ (Sera Monastery) ở Lhasa, tu viện Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo Monastery) ở Shigatse, tu viện Taer (Kumbum Monastery) ở Tây Ninh (Xining). Hầu hết, các tu viện đều thờ đại sư Tông Khách Ba và xem ông là bậc trí giả, đệ nhất tập đại thành trong việc cải cách và xiển dương phái Cách Lỗ cũng như Phật giáo Tây Tạng.

3. Giai đoạn sau đại sư Tông Khách Ba cho tới ngày nay

Sau khi vương triều Thổ Phồn diệt vong, Tây Tạng chưa được thống nhất hoàn chỉnh mãi đến lúc Hoàng Giáo cường thịnh, giữ vai trò quyết định chính trị và tôn giáo toàn vùng. Các triều vua Trung Hoa sau này đều thương thuyết mọi việc với tập đoàn đứng đầu Hoàng Giáo và coi những tập đoàn đó là lãnh đạo tối cao của Tây Tạng - thể chế này được biết đến với tên gọi chính giáo hợp nhất.

Lãnh tụ tối cao của Phật giáo Tây Tạng được gọi là Đạt Lai Lạt Ma. Vào thế kỷ 17, cao tăng Căng Đôn Châu Ba - đại đệ tử của Tông Khách Ba được công nhận là Đức Phật tái sinh, gọi là Dalai Lama. Kế nhiệm sau đó là Gendun Gyatso và cũng được gọi là Đức Phật tái sanh. Người thứ ba được vua Mông Cổ A Nhĩ Đát Hãn trao cho danh hiệu Dalai Lama đó là Tỏa Lãng Gia Mục Thố.

Tính từ năm 1391 đến nay Tây Tạng đã có tất cả 14 vị Đạt Lai Lạt Ma, từ vị đại đệ tử của Tông Khách Ba cho đến vị thứ 14 là Đăng Châu Gia Mục Thố, tương ứng với các giai đoạn triều Minh, Thanh, Trung Hoa Dân Quốc. Người Tây Tạng luôn sùng kính Đạt Lai Lạt Ma và coi đó là hiện thân của Phật sống và đầu thai qua mỗi kiếp.

đức đạt lai thứ 14 tây tạng

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Ảnh: Sưu tầm)

Từ năm 1391 đến nay, Phật giáo Tây Tạng ít có sự thay đổi chủ yếu là bảo tồn và giữ gìn bản sắc của tông phái Gelugpa.

IV. Các tông phái của Phật giáo Tây Tạng

Phật giáo Tây Tạng chia làm 4 tông phái lớn, bao gồm:

1. Phái Ninh Mã

Phái Ninh Mã có tên gọi khác là Cổ Mật hay cổ Phái; là bộ phái đầu tiên của Phật giáo Tây Tạng; được sáng lập bởi sư tổ Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Liên Hoa Sanh đã truyền bá Phật giáo cho người Tây Tạng sau đó truyền dạy theo pháp môn. Ngài chuyên tu Mật pháp. 

ngài liên hoa sanh - phật giáo tây tạng

Ngài Liên Hoa Sanh -Padmasambhava (Ảnh: Sưu tầm)

Phái Ninh Mã chủ trương tịnh hóa tâm, chú trọng thực nghiệm hiện tại mà không quan tâm đến những đối tượng trực nghiệm. Các khái niệm méo mó, sai lệch đều được sử thành khái niệm chính xác về thực tượng của hiện tiền. Đây là một thể thống nhất giúp con người thoát khỏi u mê, vô mình. Giáo lý của Phái Ninh Mã giúp các vị hành giả được thức tỉnh, giác ngộ sự đời trong cuộc sống hàng ngày.

2. Phái Tát Ca

Phái Tát Ca được truyền từ dòng họ Khon - bộ tộc được xung là con cháu của tiên nhân. Người họ Khon là đệ tử của vị đạo sư Du già Ấn Độ có tên là Virupa. Thánh điển quan trọng nhất của Phái này đó là Kim Cang Chư Kệ Tụng của Virupa cùng với các giáo thuyết được truyền miệng từ thầy sang trò như các pháp môn mật thừ khác.

phái tát ca phật giáo tây tạng

Phái Tát Ca (Ảnh: Sưu tầm)

Giáo lý cốt lõi của Phái Tát-ca là Lamdrey - dịch nghĩa là “Đạo lộ và Quả chứng”. Lamdrey nói về con đường học đạo cùng những quả vị đạt từ cả nội pháp và ngoại pháp. Giáo lý Đạo lộ và Quả chứng hướng các đệ tử tiếp tục nhận thực tại, luân hồi, không tách khỏi Niết bàn, khi tâm thức bị che ám thì chúng sanh phải đi vào luân hồi; khi tâm thức trong sạch thì mới có Niết bàn.

Phương pháp tu tập của Phái Tát-ca được chia làm 3 tầng bậc tu đó là học về giáo nghĩa, kiến thức và sau đó là những cấp bậc mật pháp cao hơn.

3. Phái Ca-nhĩ-cư (Kagyu)

Phái Ca-nhĩ-cư của Phật giáo Tây Tạng nói về học thuyết và thiền định. Các đệ tử sẽ tiếp thọ và được truyền thừa tuệ nhãn từ người thầy, gọi là pháp Đạo sư Du-già. Các đệ sư sẽ hướng dẫn cho đệ tử những điều cần học hỏi, những giá trị cần thiết để khai mở trí tuệ.

phái ca nhĩ cư tây tạng

Phái Ca-nhĩ-cư của Phật giáo Tây Tạng (Ảnh: Sưu tầm)

Mặc dù phương pháp tu luyện khác nhau nhưng đều dẫn đến chánh giác; có thể là trải nghiệm với giấc mơ, là độ ấm áp của thân thể hay cả cái chết. Đây đều là cơ hội để thực hiện chánh giác - nghĩa là sống với trạng thái tỉnh thức. Phái Ca-nhĩ-cư sử dụng sự tích giác để chuyển hóa thân phạm phu thành Phật, khi thành Phật lại đi cưới vớt tha nhân.

4. Phái Cách-lỗ (Gelug)

Tsongkhapa (1357 – 1419) là người khai sáng Phái Cách-lỗ (Gelug). Phái Cách-lỗ (Gelug) là phái hòa hợp những tinh túy của những bộ phái trước đó. Tân phái Ca-nhĩ-cư là một phần quan trọng trong hệ thống lý luận, học thuyết của Phái Cách-lỗ (Gelug) là Đại thủ ấn, 6 mật pháp Du-già để tạo thành những nghi quỷ tu tập song song cùng với mật pháp Kim Cương Thời luân. Pháp môn này kết hợp với khả năng tư duy với thiền quán, triết học.

phái cách lỗ tây tạng

Phái Cách-lỗ (Ảnh: Sưu tầm)

Phái Cách-lỗ chia thành 3 cấp tu luyện, các đệ tử sẽ trải qua 15-20 năm để học tập thì mới có thể đạt được 3 cấp độ này. Phái Cách-lỗ tin rằng mỗi người trong tâm thức đều có chút chánh giác, trí tuệ, trực cảm từ khi bé thơ và dựa vào đó để phát triển, tu tập và trở thành toàn giác.

V. Địa điểm du lịch Phật giáo tại Tây Tạng 

1. Tu viện Drepung

Tu viện Drepung là một trong ba tu viện lớn và vĩ đại nhất tại Tây Tạng, được xây dựng vào năm 1416, đóng vai trò quan trọng trong Phật giáo. Hàng năm sẽ có khoảng 10000 tu sĩ đến đây sống và tu tập. Tọa lạc trên núi Gambo Utse, tu viện là một công trình tráng lệ nằm rải rác quanh sườn đồi.

tu viện drepung tây tạng

Tu viện Drepung (Ảnh: Sưu tầm)

Đây là một nơi tuyệt vời để tìm hiểu thêm về lịch sử huy hoàng và giáo lý quý báu của Phật giáo. Hàng năm, tại lễ hội Shoton, có lễ khai quang Buddha thangka, trưng bày một bức thangka Phật khổng lồ trên sườn đồi, thu hút rất đông các tín đồ và khách du lịch đến để cầu phước lành trong một cảnh tượng rất ngoạn mục.

2. Tu viện Sera

Tu viện Sera tọa lạc tại thủ phủ Lhasa và đây được xem là “nơi ở của thần linh” rất nổi tiếng đối với nhiều khách du lịch. Tu viện Sera được xây dựng từ năm 1419, trước đây được xem là tu viện hoa hồng chuyên trồng những hàng rào hoa hồng bao quanh tu viện và ngày nay đã không còn tồn tại nữa. Rất nhiều du khách đến tham quan tu viện Sera đều cảm thấy thích thú bởi được xem các vị nhà sư trẻ bàn luận về kinh thư ngay tại vườn. 

tu viện sera tây tạng

Tu viện Sera (Ảnh: Sưu tầm)

Nơi đây là địa điểm để các nhà sư lỗi lạc và các vị được xem là Phật Sống giảng giải kinh văn của nhà Phật từ xa xưa. Đây cũng từng là nơi các Lạt Ma tranh luận về học thuyết Phật giáo vĩ đại. Công trình này vẫn giữ được nét gần gũi, nhiều cây xanh thoáng mát sử dụng cho những buổi tranh luận về Phật học đặc trưng.

3. Đền Jokhang

Là một trong những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất tại Tây Tạng, đền Jokhang nằm cách cung điện Potala chỉ một khoảng đi bộ ngắn. Với tuổi đời lên đến 1300 năm, cả ngôi đền là một công trình kiến trúc sống động, giao thoa văn hóa giữa kiến trúc Nepal, Ấn Độ và Tây Tạng.

đền jokhang

Đền Jokhang (Ảnh: Sưu tầm)

Đền Jokhang được xây dựng từ thế kỷ thứ XVII với quy mô chỉ có 8 đền thờ, nơi đây đã trải qua rất nhiều lần trùng tu mới có thể có được diện tích như ở thời điểm hiện tại. Đền Jokhang là một địa điểm du lịch tâm linh thu hút đông đảo Phật tử tìm đến tham quan, chiêm bái mỗi năm và nếu có dịp đến du lịch Tây Tạng thì đây chính là một điểm đến đặc sắc mà bạn chắc chắn không thể bỏ qua.

4. Cung điện Potala

Cung điện Potala là một quần thể kiến trúc Phật giáo tiêu biểu của vùng đất Cao nguyên Tây Tạng và công trình này đã mất đến 50 năm mới có thể hoàn thành. Cung điện Potala nằm ở độ cao 3.600m so với mực nước biển và sở hữu nét kiến trúc vô cùng độc đáo. Potala được xem là công trình cao nhất thế giới và đây cũng chính là một địa điểm du lịch Tây Tạng được yêu thích nhất ở Tây Tạng hiện nay. Cung điện Potala sở hữu nét kiến trúc độc đáo đều được làm bằng đá và gỗ. Đây là Di sản Văn hóa Thế giới đã chính thức được UNESCO công nhận nên bạn chắc chắn không thể nào bỏ qua cơ hội đến khám phá đúng không nào.

cung điện potala tây tạng

Cung điện Potala (Ảnh: Sưu tầm)

5. Tu viện Yerpa

Yerpa là một trong bốn tu viện ở Tây Tạng. Nó có lịch sử hơn 1.500 năm. Vẫn có các học viên thực hiện các khóa tu bên trong các hang động xung quanh ngôi đền. Ngôi đền ở đây được kết nối với toàn bộ khối đá, một nửa của tòa nhà được gắn vào núi, và nửa còn lại nhô ra bên ngoài.

tu viện yerpa tây tạng

Tu viện Yerpa (Ảnh: Sưu tầm)

Mặc dù vòng quanh dẫn lên ngôi đền trên núi dốc và dài, dọc đường vẫn có những lá cờ cầu nguyện dày đặc, khiến bạn cảm nhận được lòng mộ đạo và sự khổ luyện của các học viên ngay cả khi bạn không phải là tín đồ.

6. Tu viện Rongbuk

Tu viện Rongbuk, tọa lạc dưới chân núi Everest hùng vĩ, là tu viện cao nhất thế giới. Tu viện này là nơi dừng chân quan trọng cho những người leo núi đang cố gắng chinh phục đỉnh cao nhất thế giới. Hành trình đến Tu viện Rongbuk là một cuộc phiêu lưu ly kỳ, mang đến khung cảnh ngoạn mục của núi Everest. Bầu không khí thanh bình và tầm nhìn toàn cảnh của tu viện mang lại niềm an ủi và nguồn cảm hứng cho những người đi bộ, leo núi cũng như những người tìm kiếm tâm linh. 

7. Linh tháp Kumbum

Linh tháp Kumbum được coi là biểu tượng tinh hoa của văn hóa Phật giáo Tây Tạng, là một công trình kiến trúc Phật giáo có bề dày lịch sử lâu đời và mang chứa nhiều giá trị văn hóa và tinh thần của người Tây Tạng. Linh tháp có độ cao khoảng 32,4m, được chia làm 9 tầng với 77 khám thờ nhỏ. Kết cấu của mỗi tầng là biểu tượng của trời tròn đất vuông, được liên kết bằng những vòng kora. Bên trong linh tháp có hơn 100.000 bức tranh tường và tượng Phật, vì thế nơi đây còn được gọi với cái tên là Thập Vạn Phật Tự.

linh tháp kumbum tây tạng

Linh tháp Kumbum (Ảnh: Sưu tầm)

Stupa là nơi lưu giữ linh hồn, còn pho tượng là mô phỏng thể xác. Tháp Kumbum lưu giữ các pho tượng trong Stupa lớn, trong đó Stupa lớn chứa nhiều Stupa nhỏ, mandala lớn chứa nhiều mandala nhỏ. Mỗi tầng được cấu tạo bởi trời tròn đất vuông liên kết bằng những vòng kora. Linh tháp Kumbum chính là tinh hoa văn hóa Phật giáo Tây Tạng vô cùng thâm diệu.

Có thể nói, du lịch Tây Tạng như đưa chúng ta lạc vào một thế giới Phật giáo đầy hấp dẫn, nơi có những điều kỳ bí, hay phong cảnh Tây Tạng làm rung động tâm hồn con người và là nơi cho ta cảm giác bình yên trong cuộc sống đầy ồn ào, náo nhiệt. Hy vọng qua bài viết trên của PYS Travel sẽ giúp du khách có thêm kiến thức về Phật giáo tại Tây Tạng để chuyến đi của mình thêm hoàn hảo.

Các tour du lịch Tây Tạng của PYS Travel để bạn tham khảo:

Tour Tây Tạng - Lhasa - Potala Cung - Đại Chiêu Tự - Hồ Yamdrok 9 ngày 8 đêm

Tour du lịch Tây Tạng

Tham khảo thêm các tour Trung Quốc khác:

Tour du lịch Trung Quốc

Bản Quyền Hình Ảnh:

PYS Travel luôn tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ về tác phẩm nhiếp ảnh, ảnh chụp của các cá nhân và tổ chức. Chúng tôi luôn cố gắng nỗ lực liên hệ với tất cả các tác giả có ảnh được sử dụng để xin sự cho phép sử dụng ảnh. Nếu có sự sơ suất hay thiếu sót nào, chúng tôi xin được gửi lời xin lỗi tới các tác giả, chủ sở hữu hình ảnh. Các anh/chị cũng vui lòng gửi phản hồi lại cho PYS Travel: https://pystravel.vn/ban-quyen-hinh-anh 

Tour nổi bật tại Tây Tạng

Điều khoản và phản hồi về việc sử dụng hình ảnh trên website này vui lòng xem tại đây

Đăng ký nhận ưu đãi

Mỗi ngày chúng tôi đều gửi đến khách hàng của mình những tin tức thú vị, những ưu đãi hấp dẫn